ĐIỀU KIỆN VÃNG SANH

ĐIỀU KIỆN VÃNG SANH

phihaitran@yahoo.com No Comments

  1. Tịnh Độ Môn là pháp dễ tu, dễ thành tựu thông qua trì danh Niệm Phật, hiện đời an lạc, lâm chung đới nghiệp vãng sanh, dự lưu dòng thánh, thoát kiếp luân hồi.
  2. Tịnh Độ Tam Kinh là giáo lý căn bản của Tịnh Độ, là ánh sáng Phật Pháp nhầm ấn chứng Pháp tu Tịnh Độ rành rõ không mơ hồ, không mê tín giúp hành giả tu hành không lạc lối.
  3. Nơi phẩm thứ 6 của Kinh Vô Lượng Thọ nói về 48 Hạnh Nguyện Di Đà, bản nguyện này là mục tiêu, là điểm tựa căn bản có bảo chứng giúp hành giả tu tập đúng đường lối Tịnh Độ.
  4. Chư lịch Đại Tổ Sư Tịnh Độ nương bản nguyện Di Đà làm trọng tâm tu tập, đặc biệt các ngài lấy Hạnh Nguyện thứ 18 làm căn bản nguyện vì hạnh nguyện này là chánh nhân vãng sanh, là bản hoài của Phật A Di Đà, của Phật Thích Ca và tất cả Chư Phật nhằm cứu độ chúng sanh.
  5. Hành giả Tịnh Độ lưu ý: Bản Nguyện Di Đà là thuyền từ phổ độ, là tha lực Tịnh Độ, là điểm tựa căn bản giúp hành giả có định hướng tu tập chứ không phải là tha lực thần quyền, không phải thần thánh hoá Tịnh Độ.
  6. Phật A Di Đà là Bậc Giác Ngộ, chúng ta nương vào Phước Đức, Trí Tuệ, Từ Bi và Hạnh Nguyện của Ngài nhằm tiêu nghiệp chướng, hết mê lầm, bừng sáng tuệ giác, chuyển hóa khổ đau.
  7. Bản hoài của Chư Phật là cứu độ chúng sanh nên thuyền Đại Nguyện của Phật Di Đà lúc nào cũng chờ sẵn như mẹ hiền lúc nào cũng nhớ con, đợi con, còn con có nhớ mẹ, nguyện về bên mẹ hay không là chuyện của con. Nếu con nhớ mẹ, nguyện về bên mẹ, mẹ con bên nhau thì hạnh phúc biết bao.
  8. Thuyền đã chờ sẵn, muốn lên thuyền phải có tấm vé, phải thực hiện điều kiện vãng sanh, hành giả hội tụ đủ điều kiện vãng sanh là được bảo nhậm vãng sanh.
  9. Điều kiện vãng sanh là Tín Nguyện Hạnh. Tín Nguyện Hạnh là tín hiệu vãng sanh, là công thức tu tập có khoa học, có bảo chứng. Vì đây là thệ nguyện lực tu tập của Tỳ Kheo Pháp Tạng tu hành thành Phật A Di Đà
  10. Nếu hành giả tu tập đúng công thức thì

“Trăm người tu, trăm người vãng sanh.

Vạn người tu, vạn người vãng sanh”

Giống như muốn ăn cơm thì duyên hợp đầy đủ gạo, nước, lửa, nồi và người nấu là có cơm ăn.

  1. Tín Nguyện Hạnh thuộc phần tu đức, là trách nhiệm của hành giả cần phải nỗ lực tu tập để có được tấm vé bước lên thuyền Đại Nguyện được Di Đà và Thánh Chúng tiếp dẫn vãng sanh.
  2. Nơi Di Đà Yếu giải, ngài Ngẫu Ích đề xướng “Tín Nguyện trì danh là yếu chỉ Tịnh Độ, Tín Nguyện là Tuệ Hạnh, trì danh là Hành Hạnh. Được vãng sanh hay không là nhờ nỗ lực tu tập Tín Nguyện, phẩm vị cao hay thấp là do tu tập trì danh Niệm Phật cạn hay sâu.”
  3. Tin sâu nguyện thiết chính là Bồ Đề Tâm, hợp nhất Tín Nguyện đích thật là kim chỉ nam tu tập Tịnh Độ. Vì thế, Tuệ Hạnh là ánh sáng soi đường ví như đôi mắt sáng, Hành Hạnh là chánh nhân tu tập ví như đôi chân vững, đôi mắt và đôi chân liên quan hoà quyện giúp hành giả hoàn thành tâm nguyện vãng sanh ngày cuối đời.
  4. Tín gọi đủ là Chánh Tín, là niềm tin không mê tín, không cuồng tín, không mù quáng và không nghi ngờ, niềm tin đó có hiểu biết và tu tập.
  5. Niềm tin đó được trắc nghiệm trong đời sống hiện thực thông qua nếp sống hồn nhiên và bình an.  
  6. Niềm Tin đó giúp hành giả có tầm nhìn thông suốt chân lý và tự tin tuyệt đối về Pháp tu Tịnh Độ.
  7. Để thể hiện Niềm Tin Chánh Tín, hành giả Tịnh Độ đặt lòng tin vào 5 điều như sau:

1. Tin rằng Pháp Môn Niệm Phật từ Kim Khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đích thân giảng dạy, Ngài khuyên chúng sanh Niệm Phật Vãng Sanh.

2. Tin rằng ở Tây Phương có Phật Di Đà đang thuyết Pháp Độ Sanh.

3. Tin cách đây mười muôn ức Cõi Phật, quả thật có cõi Cực Lạc Chánh Báo, Y Báo cực kỳ trang nghiêm. Chúng sanh ở cõi ấy không có các sự khổ nên gọi là Cực Lạc.

4. Tin bản nguyện Di Đà hình thành Tịnh Độ Tông, là thuyền từ phổ độ, cứu độ chúng sanh, vãng sanh Tịnh Độ.

5. Tin Pháp tu trì danh Niệm Phật giúp hành giả hoàn thành kiếp tu đời này thông qua đới nghiệp vãng sanh.

Tin Pháp tu trì danh Niệm Phật giúp hành giả tiêu trừ nghiệp chướng, khế hội bản thể, thể nhập tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh Độ.

  1. Nguyện gọi đủ là phát nguyện vãng sanh. Cho dù niềm tin hành giả có sâu đậm nhưng không phát nguyện thì khó mà vãng sanh cũng như người bệnh tin tưởng vào thuốc hay mà không chịu uống thuốc thì khó mà hết bệnh.
  2. Hành giả phát nguyện vãng sanh biết rõ đời là bể khổ nên nhàm chán buông xả, biết cực lạc là an vui nên ưa thích nguyện sanh. Thực hiện tin sâu, nguyện thiết như vậy mới giúp hành giả thành tựu hoài bảo vãng sanh.
  3. Quá trình thực hiện tâm nguyện vãng sanh, hành giả cần tu tập 6 điều như sau:

1/ Nguyện rũ bỏ phiền não, nhất tâm cầu vãng sanh.

2/ Nguyện không làm điều ác, nhất tâm cầu vãng sanh.

3/ Nguyện làm các điều lành, nhất tâm cầu vãng sanh.

4/ Nguyện đối diện nghịch cảnh, luôn nhớ Phật niệm Phật, nhất tâm cầu vãng sanh.

5/ Nguyện tu các công đức, hồi hướng về Cực Lạc, nhất tâm cầu vãng sanh.

6/ Nguyện người người niệm Phật, nhất tâm đồng vãng sanh.

  1. Nếu tâm nguyện của hành giả thật là tha thiết thì vãng sanh chẳng khó gì.
  1. Trì danh Niệm Phật là pháp tu phương tiện thù thắng trong các pháp phương tiện.
  2. Trì danh Niệm Phật có chánh tu và trợ tu: Phần chánh tu, hành giả cần tu tập cả thân lẫn tâm.
  3. Nơi thân hành giả cần điều chỉnh bộ ngồi ngay thẳng, cột xương sống ngay thẳng. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn vì thế tùy thuộc vào trạng thái tâm mà điều chỉnh đôi mắt hé mở một phần ba hoặc nhắm lại. Riêng đôi tay khi công phu hành giả nên chấp lại hoặc kiết ấn Phật thành đạo để bộ ngồi được thanh tịnh trang nghiêm.
  4. Nơi tâm hành giả khi công phu niệm Phật cần chí thành tâm, tương tục tâm, rõ ràng tâm, nhiếp thủ tâm để thời khoá công phu được nhất tâm thanh tịnh.
  • Chí thành tâm là công phu Niệm Phật lưu xuất từ nội tâm tha thiết thành khẩn, có thần, có hồn, tràn đầy năng lượng cảm xúc, thông tâm cùng tâm Phật, cảm ứng đạo giao cùng Chư Phật.  
  • Tương tục tâm là niệm Phật tương tục tịnh niệm nối tiếp để dừng ngừng vọng tưởng, giúp tâm hành giả được an tịnh.
  • Rõ ràng tâm là tỉnh thức niệm Phật giác biết tâm hành giả và tiếng niệm Phật thật là rõ ràng, không mê muội hôn trầm.
  • Nhiếp thủ tâm là tâm không rời Phật hiệu, Phật hiệu không rời tâm, tâm và Phật hiệu hoà quyện thành khối để thành tựu nhất tâm bất loạn.    
  1. Phần trợ tu là đi, đứng, nằm, ngồi tiếp duyên đối cảnh, hành giả hướng Phật Niệm Phật, nhìn tất cả mọi hiện tượng đều là A Di Đà Phật.  
  2. Nhờ Niệm Phật tâm hành giả được thanh tịnh, tiêu trừ vọng tưởng và nghiệp chướng làm cho tâm hành giả được trong sáng hơn.
  3. Khi học tập Tín Nguyện Hạnh được chia chẻ độc lập nhưng khi công phu thì nương tựa lẫn nhau, trợ lực cho nhau, hoà quyện cùng nhau tạo thành đạo lực thanh tịnh, bừng sáng tuệ giác giúp hành giả tự chủ cuộc sống.
  1.  Tóm lại, nếu hành giả Tịnh Độ một đời tin sâu, nguyện thiết, thành thật Niệm Phật chắc chắn được liên hoa hóa sanh, được Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ.

Chùa Pháp Thường,

Xã Đại Phước, Tỉnh Đồng Nai

Sa Môn Thích Thiện Pháp